Lịch sử Medina

Tiền Hồi giáo

Medina trong lịch sử

Đến thế kỷ IV, các bộ lạc Ả Rập bắt đầu xâm lấn từ Yemen, và có ba bộ lạc Do Thái nổi bật từng sống tại thành phố vào thế kỷ VII: Banu Qaynuqa, Banu Qurayza và Banu Nadir.[12] Ibn Khordadbeh sau này thuật rằng trong thời kỳ Đế quốc Ba Tư chi phối tại Hejaz, Banu Qurayza có vai trò là người thu thuế cho Shah Ba Tư.[13]

Tình hình thay đổi sau khi hai bộ lạc Ả Rập mới là Banu Aus (hay Banu 'Aws) và Banu Khazraj đến từ Yemen. Ban đầu, các bộ lạc mày liên minh với những người cai trị Do Thái, song sau đó họ nổi dậy và trở nên độc lập.[14] Đến cuối thé kỷ 5,[15] những người cai trị Do Thái để mất quyền kiểm soát thành phố về tay Banu Aus và Banu Khazraj. Bách khoa toàn thư Do Thái viết rằng "bằng cách kêu gọi giúp đỡ từ bên ngoài và tàn sát một cách bội bạc trong một bữa tiệc lớn của những người Do Thái đứng đầu", Banu Aus và Banu Khazraj cuối cùng chiếm thế thượng phong tại Medina.[12]

Hầu hết sử gia hiện đại chấp thuận luận điểm của các nguồn Hồi giáo rằng sau cuộc nổi dậy, các bộ lạc Do Thái trở thành cộng đồng bị Aus và Khazraj bảo hộ.[16] Tuy nhiên, theo học giả về Hồi giáo William Montgomery Watt, địa vị này của các bộ lạc Do Thái không có trong các văn kiện lịch sử vào giai đoạn trước 627, và ông cho rằng người Do Thái duy trì một phương thức độc lập chính trị.[14]

Nhà biên niên sử sơ khởi Hồi giáo Ibn Ishaq nói về xung đột thời kỳ tiền Hồi giáo giữa quốc vương người Yemen cuối cùng của Vương quốc Himyar và các cư dân của Yathrib. Khi quốc vương đi ngang qua ốc đảo, các cư dân giết con trai ông, và quân chủ Yemen đe doạ tiêu diệt cư dân và chặt các cây cọ. Theo Ibn Ishaq, ông ngưng làm vậy do hai rabbi từ bộ lạc Banu Qurayza, họ khẩn nài quốc vương tha cho ốc đảo vì đây là nơi "mà một nhà tiên tri của Quraysh sẽ di cư đến vào thời gian tới, và nó sẽ là nhà và nơi yên nghỉ của ông." Quốc vương người Yemen do đó không tàn phá thị trấn và cải sang Do Thái giáo.[17]

Cuối cùng, Banu Aus và Banu Khazraj trở nên thù địch với nhau vào thời điểm Muhammad Hijra (di cư) đến Medina vào năm 622 (năm 1 theo lịch Hồi giáo), họ giao tranh trong 120 năm và thề là kẻ thù của nhau.[18] Banu Nadir và Banu Qurayza liên minh với Aus, còn Banu Qaynuqa ở bên phía Khazraj.[19] Họ giao tranh trong tổng cộng bốn cuộc chiến.[14]

Trận đánh cuối cùng và đẫm máu nhất giữa họ là trận Bu'ath[14] diễn ra vài năm trước khi Muhammad đến.[12] Kết quả của trận đánh không xác định định và mối thù vẫn tiếp diễn. Abd-Allah ibn Ubayy là một tù trưởng Khazraj, ông từ chối tham gia trận đánh, khiến ông có được danh tiếng vì tính công bằng và hoà bình. Cho đến trước khi Muhammad đến, ông là cư dân được kính trọng nhất của Yathrib. Nhằm giải quyết mối thù đang hiện hữu, các cư dân lo lắng trong thành phố đã bí mật gặp Muhammad tại Al-Aqaba, một nơi nằm giữa Mecca và Mina, họ mời ông và nhóm tín đồ nhỏ của ông đến Yathrib, tại đây Muhammad có thể đóng vai trò là nhà trung gian không vụ lợi giữa các phái và cộng đồng của ông có thể được tự do hành lễ tín ngưỡng của họ.

Muhammad đến

Năm 622, Muhammad và khoảng 70 tín đồ Muhajirun Mecca rời khỏi Mecca đến nơi nương náu tại Yathrib, sự kiện này chuyển đổi hoàn toàn bối cảnh tôn giáo và chính trị của thành phố; thù địch trường kỳ giữa các bộ lạc Aus và Khazraj được giảm bớt vì nhiều thành viên của hai bộ lạc Ả Rập này và một số người Do Thái địa phương đi theo Hồi giáo. Muhammad liên kết với bộ lạc Khazraj thông qua cụ bà của mình, ông được chấp thuận làm thủ lĩnh dân sự. Người Hồi giáo tiến hành cải đạo cư dân bản địa Yathrib với mọi xuất thân, Ả Rập dị giáo hoặc Do Thái giáo, họ được gọi là Ansar ("những người bảo trợ" hay "những người giúp đỡ").

Theo Ibn Ishaq, các bộ lạc Ả Rập dị giáo địa phương, Muhajirun Hồi giáo từ Mecca, người Hồi giáo địa phương (Ansar), và cư dân Do Thái trong khu vực đã ký một hiệp định gọi là Hiến pháp Medina, theo đó cam kết mọi bên hợp tác với nhau dưới quyền lãnh đạo của Muhammad. Tính chất của văn kiện này theo tường thuật bởi Ibn Ishaq và được truyền lại bởi Ibn Hisham là chủ đề tranh luận giữa các sử gia phương Tây hiện đại, nhiều người trong số họ cho rằng "hiệp định" này có thể là kết hợp các thoả thuận khác nhau, bằng miệng thay vì thành văn, với mốc thời gian khác nhau, và rằng không rõ chính xác khi nào chúng được lập ra. Tuy nhiên, các học giả khác, cả phương Tây và Hồi giáo lập luận rằng văn bản của thoả thuận-cho dù có là một văn kiện đơn lẻ hay là một số—có lẽ là một trong các văn bản Hồi giáo cổ xưa nhất mà chúng ta có được.[20] Theo các nguồn Do Thái Yemen, hiệp định khác được soạn thảo giữa Muhammad và các thần dân Do Thái của ông, gọi là kitāb ḏimmat al-nabi, được viết vào năm thứ 17 Hijra (638), và nó thể hiện quyền tự do cho người Do Thái trên bán đảo Ả Rập được cử hành Sabbath và nuôi bím tóc hai bên, song được yêu cầu phải trả jizya (thuế thân) hàng năm cho những người bảo hộ cho họ.[21]

Trận Badr

Tranh vẽ mô tả trận Bahr vào thời Ottoman

Trận Badr là một trận đánh chủ chốt trong những ngày đầu của Hồi giáo và là một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh của Muhammad với các địch thủ của ông trong bộ lạc Quraysh tại Mecca.

Vào mùa xuân năm 624, Muhammad nhận được tin tức từ các nguồn tình báo rằng một đoàn buôn do Abu Sufyan ibn Harb chỉ huy đang trên đường từ Syria trở về Mecca. Muhammad tập hợp một đội quân gồm 313 người, đội quân lớn nhất mà người Hồi giáo từng có trên chiến trường. Tuy nhiên, nhiều nguồn Hồi giáo ban đầu, như Quran, cho thấy rằng không có giao tranh ác liệt như dự tính,[22]. Khi đoàn buôn đến gần Medina, Abu Sufyan bắt đầu nghe được tin về cuộc phục kích của Muhammad. Ông ta cử một sứ giả là Damdam đến Mecca để cánh báo Quraysh và nhận tiếp viện, Quraysh tập hợp một đội quân đi cứu nguy cho đoàn buôn.

Trận chiến bắt đầu khi hai bên tiến hành giao chiến. Người Hồi giáo phái Ali, Ubaydah ibn al-Harith (Obeida) và Hamza ibn ‘Abd al-Muttalib, trừ khử các chiến binh Mecca trong một cuộc hỗn chiến ba đấu ba.[23] Hai đội quân tiếp đó bắn tên vào nhau. Trước khi trận đấu bắt đầu, Muhammad đã ra lệnh cho người Hồi giáo tấn công cùng vũ khí tầm xa của họ, và chỉ giao chiến với Quraysh bằng vũ khí hỗn chiến khi họ tiến quân.[24] Sau khi Muhammad ra lệnh, quân Hồi giáo xông đến hàng ngũ của Quraysh. Người Mecca dù đông hơn so với người Hồi giáo song nhanh chóng tan vỡ và trốn chạy. Trận đánh chỉ kéo dài trong vài giờ và kết thúc vào đầu buổi chiều.[25] Quran miêu tả việc quân Hồi giáo tấn công trong nhiều câu thơ, trong đó nói về hàng nghìn thiên thần tại Badr đến tàn sát người Quraysh.[26][27] Các nguồn Hồi giáo ban đầu lấy lại tường thuật này theo nghĩa đen, và có một vài hadith nói về Muhammad thảo luận với thiên thần Jibreel và vai trò của ông trong trận đánh.

Ubaydah ibn al-Harith (Obeida) được vinh danh là "người bắn phát tên đầu tiên cho người Hồi giáo" do Abu Sufyan ibn Harb phải đổi chiến mã để chạy trốn cuộc tấn công. Nhằm trả đũa cho cuộc tấn công này, Abu Sufyan ibn Harb thỉnh cầu một đội quân từ Mecca.[28] Trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 623, Muhammad phái thêm các toán tập kích khác từ Medina.

Trận Uhud

Núi Uhud

Năm 625, Abu Sufyan ibn Harb một lần nữa dẫn một đội quân Mecca đến chống lại Medina, Muhammad hành quân đi ứng chiến. Với lực lượng ít hơn, quân Hồi giáo tìm ra được một chiến lược để chiếm thế thượng phương. Một nhóm cung thủ được lệnh mai phục trên một đồi để theo dõi quân kỵ binh của Mecca và bảo vệ hậu phương quân Hồi giáo. Khi trận đánh nổ ra, người Mecca buộc phải rút lui một chút. Mặt trận trở nên xa khỏi tầm bắn của các cung thủ, lực lượng này từ đầu vốn chỉ quan sát. Do thiếu kiên nhẫn và cho rằng đã giành được lợi thế phần nào, các cung thủ này quyết định rời vị trí và truy kích quân Mecca đang rút lui.

Tuy nhiên, việc quân Mecca rút lui chỉ là một thủ đoạn. Vị trí sườn đồi là một lợi thế rất lớn đối với quân Hồi giáo, và họ đã bị người Mecca nhử khỏi vị trí để giành lại ưu thế. Nhận thấy chiến lược của họ đã có kết quả, kỵ binh Mecca vòng qua đồi và xuất hiện phía sau các cung thủ đang truy kích. Các cung thủ bị phục kích trong vùng đồng bằng giữa đồi và tiền tuyến, bị đồ sát có hệ thống, các đồng đội còn lại của họ trên đồi bắn tên ngăn cản song có ít hiệu quả.

Tuy nhiên, quân Mecca không tận dụng được lợi thế để xâm chiếm Medina và đã trở về Mecca. Người Medina chịu tổn thất nặng nề, và Muhammad bị thương.

Trận Trench

Năm 627, Abu Sufyan ibn Harb một lần nữa dẫn quân Mecca chống Medina. Do cư dân Medina đã đào một con hào để bảo vệ thành phố, nên sự kiện này được gọi là trận chiến Hào. Sau một cuộc bao vây kéo dài và nhiều vụ đụng độ, người Mecca lại triệt thoái. Trong quá trình bao vây, Abu Sufyan ibn Harb đã tiếp xúc với bộ lạc Do Thái Banu Qurayza và đạt được một thoả thuận với họ về tấn công lực lượng phòng thủ từ hậu phương. Tuy nhiên, điều này bị người Hồi giáo phát giác và cản trở. Hành vi này đã vi phạm Hiến pháp Medina, và sau khi quân Mecca rút lui thì Muhammad lập tức hành quân chống lại Qurayza và bao vây đồn luỹ của họ. Quân Do Thái cuối cùng đầu hàng. Một số thành viên của Banu Aus lúc này can thiệp giúp các đồng minh cũ của họ và Muhammad chấp thuận bổ nhiệm một trong các tù trưởng của họ là Sa'd ibn Mu'adh làm thẩm phán. Sa'ad phán quyết theo luật Do Thái rằng toàn bộ thành viên nam giới của bộ lạc sẽ bị giết còn nữ giới và trẻ em trở thành nô lệ vì tội làm phản.[29] Hành động này được nhìn nhận là một biện pháp có tính phòng thủ nhằm đảm bảo rằng cộng đồng Hồi giáo có thể chắc chắn về sự tồn tại tiếp tục của mình tại Medina. Sử gia Robert Mantran cho rằng theo quan điểm này thì họ đã thành công, do từ đó trở đi người Hồi giáo không còn phải lo lắng ở mức chính yếu đến sự tồn tại của mình mà là về bành trướng và chinh phục.[29]

Thủ đô các triều đại Hồi giáo

Mô tả Medina cổ xưa vào thời Ottoman

Mười năm sau hijra, Medina trở thành căn cứ để Muhammad và quân Hồi giáo tấn công và bị tấn công, và đây là nơi ông hành quân đến Mecca mà không phải giao chiến vào năm 629, tất cả các bên đều chấp thuận quyền lãnh đạo của ông. Tuy nhiên, dù Muhammad có liên kết bộ lạc với Mecca và tầm quan trọng của kaaba tại Mecca đối với hành hương Hồi giáo (hajj), song Muhammad vẫn trở về Medina, nơi đây trong một vài năm trở thành thành phố quan trọng nhất trong Hồi giáo và là thủ đô của triều đại khalip ban đầu.

Yathrib được đổi tên thành Medina theo Madinat al-Nabi ("thành phố của Nhà tiên tri" trong tiếng Ả Rập) nhằm tôn vinh thân phận tiên tri và việc qua đời của Muhammad tại đây. (Ngoài ra, Lucien Gubbay đề xuất rằng tên gọi Medina có thể cũng bắt nguồn từ Medinta trong tiếng Aram, là tên cư dân Do Thái có thể đã sử dụng để gọi thành phố.[30])

Dưới thời ba khalip đầu tiên là Abu Bakr, UmarUthman, Medina là kinh đô của một đế quốc Hồi giáo phát triển nhanh chóng. Trong giai đoạn Uthman, một nhóm người Ả Rập đến từ Ai Cập bất bình với các quyết định chính trị của ông nên đã tấn công Medina vào năm 656 và sát hại ông. Khalip thứ tư là Ali chuyển kinh đô của đế quốc từ Medina đến Kufa thuộc Iraq. Sau đó, tầm quan trọng của Medina bị thu hẹp, trở thành một nơi quan trọng về tôn giáo thay vì quyền lực chính trị.

Năm 1256, Medina bị đe doạ từ một dòng dung nham từ khu vực núi lửa Harrat Rahat.[31][32]

Sau khi triều đại khalip tan vỡ, thành phố lệ thuộc những người cai trị khác nhau, trong đó có người Mamluk của Cairo trong thế kỷ XIII, và từ năm 1517 là Đế quốc Ottoman.[33]

Hiện đại

Thành phố Medina hiện đại

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Medina phải trải qua một trong những cuộc bao vây dài nhất trong lịch sử. Medina khi đó là một thành phố thuộc Đế quốc Ottoman, quyền cai trị địa phương nằm trong tay thị tộc Hashem với hiệu là Sharif hoặc Emir của Mecca. Fakhri Pasha là thống đốc Medina của triều đình Ottoman. Ali bin Hussein, Sharif của Mecca là là thủ lĩnh của thị tộc Hashem, ông tiến hành khởi nghĩa chống lại khalip tại Constantinople (Istanbul) và đứng về phía người Anh. Thành phố Medina bị quân Sharif bao vây, và Fakhri Pasha kiên trì giữ thành từ năm 1916 đến ngày 10 tháng 1 năm 1919. Ông từ chối đầu hàng và giữ thành thêm 72 ngày sau khi có Hiệp định đình chiến Moudros, cho đến khi bị thuộc cấp bắt giữ.[34] Do tiên lượng rằng thành phố sẽ bị cướp bóc và phá hoại, Fakhri Pasha bí mật cho đưa Thánh tích của Medina đến Istanbul.[35]

Năm 1920, người Anh mô tả Medina là "tự lực hơn nhiều so với Mecca."[36] Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Sayyid Hussein bin Ali thuộc thị tộc Hashem được tuyên bố là quốc vương của Hejaz độc lập. Đến năm 1924, ông chiến bại trước Ibn Saud, người này sáp nhập Medina và toàn thể Hejaz vào Vương quốc Ả Rập Xê Út hiện nay.

Ngày nay, Medina là địa điểm hành hương quan trọng thứ nhì trong Hồi giáo, và là thủ phủ của vùng Al Madinah. Ngoài khu thành cổ linh thiêng hạn chế với người phi Hồi giáo, thì Medina là một thành phố hiện đại, đa dân tộc gồm người Ả Rập Xê Út và ngày càng nhiều công nhân ngoại kiều Hồi giáo và phi Hồi giáo, như người Ai Cập, Nam Á và Philippines.

Chính phủ Ả Rập Xê Út chống đối bất kỳ sùng kính nào với các địa điểm quan trọng về lịch sử và tôn giáo vì lo ngại có thể dẫn đến shirk (sùng bái thần tượng). Do đó, dưới thời Nhà Saud, di sản vật thể của Medina bị phá hoại đáng kể, bao gồm việc mất đi nhiều toà nhà trên một nghìn năm tuổi.[37] Những người chỉ trích mô tả điều này là "chủ nghĩa phá hoại Saud" và cho rằng tại Medina và Mecca trong hơn 50 năm qua, có 300 di tích lịch sử có liên hệ đến Muhammad, gia tộc hoặc đồng môn của ông đã biến mất.[38] Tại Medina, minh chứng cho các di tích lịch sử bị phá huỷ gồm có Thánh đường Salman al-Farsi, Thánh đường Raj'at ash-Shams, Nghĩa trang Jannatul Baqee, và Nhà của Muhammed.[39]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Medina http://www.dangoor.com/71page33.html http://blog.dawntravels.com/performing-hajj-umrah/ http://www.fdimagazine.com/news/fullstory.php/aid/... http://www.hajinformation.com/main/h2022.htm http://www.jewishencyclopedia.com/view.jsp?artid=3... http://www.railwaygazette.com/news/news/middle-eas... http://www.railwaygazette.com/news/single-view/vie... http://www.saudiaramcoworld.com/issue/200606/Saudi http://www.searchtruth.com/book_display.php?book=3... http://www.answering-islam.de/Main/Books/Muir/Life...